Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

Tính pháp lý của đóng dấu treo và dấu giáp lai

Tính pháp lý của đóng dấu treo và dấu giáp lai



Dấu treo và dấu giáp lai được sử dụng phổ biến trong văn bản được ban hành. Có nhiều bạn không để ý hoặc cũng không tiếp xúc với vấn đề này nhiều thành ra cũng chưa hiểu hết được tính pháp lý của dấu treo và dấu giáp lai. Hôm nay, khắc dấu An Khánh sẽ giải thích để các bạn nắm được sự khác biệt cũng như tính pháp lý của chúng.

Phân biệt dấu treo và dấu giáp lai

Theo nghị định số 58 năm 2001 về quản lý và sử dụng con dấu doanh nghiệp:

  • Đóng dấu treo
Đóng dấu treo là đóng dấu lên trang đầu và đóng trùm lên một phần tên cơ quan, tổ chức hoặc tên của phụ lục kèm theo văn bản chính.Một số cơ quan đóng dấu treo trên văn bản nội bộ. Việc này nhằm mang tính thông báo trong cơ quan hoặc trên góc trái của liên đỏ hoá đơn tài chính.Đóng dấu treo lên văn bản không khẳng định giá trị pháp lý của văn bản đó mà chỉ nhằm khẳng định văn bản được đóng dấu treo là một bộ phận của văn bản chính.
  • Đóng dấu giáp lai


Đóng dấu giáp lai là đóng dấu lên lề bên trái hoặc lề bên phải văn bản gồm 2 tờ trở lên để trên tất cả các tờ đều có thông tin về con dấu nhằm đảm bảo tính chân thực của từng tờ và ngăn ngừa việc thay đổi nội dung, giả mạo văn bản. Thường thì các doanh nghiệp ký kết hợp đồng bao gồm nhiều trang, ngoài chữ ký, dấu chức danh và đóng dấu doanh nghiệp của các bên ở phần cuối cùng của hợp đồng thì vẫn không thể thiếu dấu giáp lai của các bên.Đối với hợp đồng có nhiều trang mà không thể đóng dấu giáp lai 1 lần thì có thể chia ra, đóng dấu giáp lai trên các trang liên tiếp cho đến khi đã đóng dấu giáp lai lên hết các trang của hợp đồng đó và đảm bảo khi ráp các trang lại với nhau thì dấu giáp lai phải khớp với con dấu của doanh nghiệp.

Tính pháp lý dấu treo và dấu giáp lai

  • Dấu treo và dấu giáp lai mặc dù đều sử dụng con dấu để đóng vào văn bản được ban hành tuy nhiên chúng không khẳng định giá trị pháp lý của văn bản. 
  • Giá trị pháp lý của văn bản được khẳng định bởi con dấu đóng 1/3 chữ ký của người có thẩm quyền.